Tết đến, Xuân về ai cũng muốn mọi điều đều mới mẻ, tốt đẹp. Nên cùng với việc dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa thì việc được quan tâm nhiều, háo hức nhiều là sắm sửa quần áo mới.
Y Xen đang nói chuyện về hậu quả của nạn tảo hôn, đẻ nhiều, đẻ dày với dân làng. Phải từ người thật việc thật như vậy thì công tác tuyên truyền mới có hiệu quả cao được- anh trưởng thôn nói.
Những ngày cuối năm, cả xóm rộn ràng cả lên. Nhà thì tranh thủ giặt giũ chăn màn cho thơm tho, sạch sẽ. Nhà thì lắp thêm cái nọ, sửa lại cái kia, quét tước, vôi ve lại tường rào cổng ngõ. Nhà thì lúi lúi cuốc cuốc xới xới, trồng thêm luống rau cải, cấy thêm luống mùng tơi để dành mà ăn tết. Nhà thì nhắc nhau nhặt lá, cho cây mai ủ nụ đến đúng Tết rực rỡ đón Xuân về.
Đèn dầu gắn liền với tuổi thơ tôi, những năm tiểu học rồi đến trung học cơ sở, khi ấy quê tôi chưa có điện thắp sáng như bây giờ. Đã mấy chục năm trôi qua, những ngọn đèn dầu le lói vào ban đêm trong những căn nhà ở quê vẫn khắc sâu trong tâm trí, chẳng thể nào quên.
Có cảm xúc đặc biệt với khoảnh khắc mỗi sớm mai nên thành quen, hôm nào em cũng thức dậy vào lúc tang tảng sớm. Cố nhiên là lúc nào cũng nấn ná một chút trong chiếc chăn mỏng. Khi sẽ sàng thức dậy, em đều lặng lẽ vén rèm, đứng lặng im bên khung cửa sổ mà nhìn về phía đằng đông xa xa.
Sáng sớm, tôi đã thấy bà Hai ngồi ở góc đường, trước mặt bà bày những túi nilon đựng từng mớ rau hái trong vườn nhà mang ra bán. Nhìn bà ngồi co ro với chiếc áo ấm đã cũ trong tiết trời giá lạnh ai cũng muốn ghé lại, trước là để mua ủng hộ bà, sau là có mớ rau sạch để chế biến món ăn cho gia đình mình.
Cỏ đuôi chồn cứ tha thiết sống, âm thầm sống. Cho đến một ngày nào đó cuối tháng Mười, đầu tháng Mười Một, mở cửa ra, người ta thảng thốt khi thấy những vạt hoa cỏ đuôi chồn đung đưa trong gió.
Gần đến ngày giỗ cô Ba, mọi người trong nhà bàn tính xem nấu nướng món gì để dâng lên bàn thờ cúng cô. Mọi người bàn tính đủ món, nhưng dượng Ba thì bảo, gì thì gì chứ không thể thiếu món bún gạo xào măng khô. “Trước cúng bả, sau cho con cháu thưởng thức, vì món ấy tuy dân dã mà xem ra ai cũng ghiền”- dượng Ba nói.
Nhìn già ngồi bên bếp lửa hồng, hết cặm cụi chuốt chuốt, đan đan, lại đến ngắm ngắm nghía nghía chiếc gùi đang đan dở, mà trong tôi những câu thơ: “Ngày cứ dồn thương nhớ xuống đầy vơi/Như lũ thóc cứ cời trong cót thóc/Với nong nia, rê sảy, dần sàng/ Lá lúa thì xanh/Bông lúa lại vàng/Và hạt gạo cứ ngần ngật trắng” như đang trở tới trở lui với muôn vàn cảm xúc.
Những ngọn gió mùa thổi lồng lộng trên phố, se và khô, báo hiệu mùa Đông đã bắt đầu gõ cửa. Chợt thấy xốn xang bởi cảnh sắc đổi thay và những ký ức xưa cũ.
Ở làng, vẫn còn nhiều gia đình dùng bếp củi. Vì vậy, bên hiên nhà, ta vẫn thấy xếp ngay ngắn những bó củi khô. Nhìn hình ảnh bình dị ấy, lại thấy nhớ sao những bó củi bên hiên nhà của ba.
Trời còn mờ sương, chị đã lục tục sửa soạn, í ới mấy chị em trong làng cùng nhau đi hái lá mì. Lá mì phải hái sớm, khi trời hãy còn mờ sương mới ngon. Mấy hôm nữa, làng vào hội, gì thì gì phải có món ăn được chế biến từ lá mì.
Chiều đi làm về, vừa rẽ vào cổng làng, tôi đã thấy phảng phất đâu đây mùi khói đốt đồng trong làn gió se lạnh. Mùi khói cay cay, thoảng mùi thơm của rơm rạ lẫn nồng nồng của bùn đất làm dậy lên trong lòng niềm thương nhớ da diết về cánh đồng chiều nơi quê nhà.
Mấy hôm này nắng đã hửng dần, trời đã hanh hao sau những ngày dài mưa tầm tã. Xé tờ lịch đón chào ngày mới, em nhận ra mình đang dần đi qua những ngày cuối của năm. Chẳng mấy chốc nữa những ngày này, tháng này và cả mùa đông này nữa cũng dần trôi, cũng chìm khuất vào thời gian.
Tôi và Tuấn dừng xe ở đầu con dốc nhìn về phía ngôi làng nằm giữa sườn núi. Gió thổi từ phía rừng cao su tới đem theo thứ âm thanh trong trẻo quẩn quanh, như tiếng sơn ca, như tiếng suối reo, làm tâm hồn rung lên nhè nhẹ.
Tranh đấu mãi với chính mình, cuối cùng tôi cũng tung được tấm chăn ra. Trong loáng choáng men rượu còn vương vít, tôi nghe tiếng cồng chiêng bung biêng vọng tới, lúc xa lúc gần.
Chiều tối thứ Sáu hằng tuần, sân nhà ông A Bi ở thôn Kon Hia 1 (xã Đăk Rơ Ông, huyện Tu Mơ Rông) lại vang lên tiếng cồng chiêng rộn ràng. Đó là lớp học dành cho các em nhỏ trong thôn do ông A Bi mở và duy trì đều đặn suốt nhiều mùa hè để truyền dạy những nhịp chiêng truyền thống của dân tộc mình. Từ niềm đam mê thuở nhỏ, ông A Bi trở thành người thắp lên tình yêu cồng chiêng cho thế hệ sau, góp phần gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc.