Dân số và phát triển
Gần 7 năm qua, thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, chính sách dân số trên địa bàn tỉnh không còn bó hẹp trong kế hoạch hóa gia đình mà chuyển trọng tâm sang dân số và phát triển.
Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (tổ chức tháng 10/2017), khi đề cập công tác dân số trong tình hình mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây là vấn đề rất lớn và khó, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc bảo vệ, phát triển giống nòi, quốc gia, dân tộc”.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới. Nghị quyết yêu cầu: "Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.
Từ khi Nghị quyết 21-NQ/TW ra đời đến nay, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành, triển khai nhiều chương trình, kế hoạch, đề án nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa việc thực hiện Nghị quyết.
Trong đó có Chương trình số 55-CTr/TU ngày 21/2/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW; Kế hoạch hành động giai đoạn 2020-2025 (số 256/KH-UBND ngày 22/1/2020) thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp đẩy mạnh quán triệt, tuyên truyền chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác dân số trong tình hình mới.
Chú trọng tăng cường, tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, thống nhất về nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong việc chuyển trọng tâm của chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Nghĩa là, nếu trước đây, chính sách dân số tập trung giải quyết một vấn đề là mức sinh cao, thông qua các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, thì từ sau khi có Nghị quyết 21-NQ/TW, chính sách dân số phải giải quyết hàng loạt vấn đề đặt ra, như đạt mức sinh thay thế, tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, nâng cao chất lượng dân số; phân bố dân số hợp lý góp phần phát triển nhanh và bền vững.
Từ đó, công tác dân số được thực hiện theo đúng định hướng và cơ bản đạt mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với giảm nghèo, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
|
Theo số liệu từ Cục Thống kê, quy mô dân số (đến hết năm 2023) của tỉnh là 591.266 người; tổng số người từ 15 tuổi trở lên là 405.334 người; lực lượng lao động có 333.428 người; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 16,4‰ (năm 2019) xuống còn 13,2‰ (năm 2023); chất lượng dân số được cải thiện nhiều mặt về thể chất, tuổi thọ, trình độ văn hoá, sức khoẻ sinh sản; giảm tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.
Tuy nhiên, theo Sở Y tế, tư tưởng muốn có nhiều con, trọng nam hơn nữ vẫn còn khá phổ biến trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên. Điều này dẫn đến mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 còn cao so với các tỉnh trong khu vực và cả nước.
Cụ thể, đến hết năm 2023, mức sinh ở tỉnh ta đang là 2,43/phụ nữ (mức trung bình cả nước là dưới 2,1 con/phụ nữ); tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 13,35%, đáng chú ý là cả 10 huyện, thành phố đều có nhiều địa phương có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên khá cao, nhất là vùng đồng bào DTTS.
Mức sinh cao, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên lớn sẽ tác động sâu sắc tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, như hệ thống chăm sóc sức khoẻ, an sinh xã hội, việc làm. Từ đó cản trở tốc độ phát triển kinh tế-xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá, thể lực của giống nòi.
Bên cạnh đó, báo cáo của ngành Y tế cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống vẫn còn xảy ra ở một số xã vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào DTTS, làm ảnh hưởng đến chất lượng dân số.
Trong một báo cáo gần đây, UBND tỉnh đánh giá công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số địa phương, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao. Nội dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào kế hoạch hóa gia đình.
Đáng chú ý là một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình; lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa hiệu quả.
Từ đó, các nội dung về dân số trong phát triển kinh tế - xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức. Nguồn lực đầu tư cho dân số, kế hoạch hóa gia đình còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở cấp cơ sở còn thấp.
Theo Kế hoạch hành động số 256/KH-UBND, tỉnh ta phấn đấu đến năm 2025 giảm mức sinh xuống còn 2 - 2,1 con/phụ nữ; quy mô dân số đạt trên 620.000 người; tỷ số giới tính khi sinh đạt 103 - 106 bé trai/100 bé gái; tỷ trọng dân số trong độ tuổi từ 15 - 64 đạt khoảng 67%.
Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Nâng cao chất lượng dân số, tạo nền tảng cho sự phát triển của nguồn nhân lực, tiếp tục thực hiện bố trí và sắp xếp dân cư hợp lý giữa các vùng, và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
|
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong thời gian tới, chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số. Tổ chức bộ máy làm công tác dân số tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự quản lý chuyên môn, nghiệp vụ.
Đặc biệt là tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao. Tiếp tục củng cố mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Đổi mới phương thức cung cấp, đưa dịch vụ tới tận người sử dụng; thúc đẩy cung cấp dịch vụ qua mạng.
Thành Hưng