Chuyển biến trong Chuyển đổi số
Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 18/2/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về Chuyển đổi số tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đến nay, toàn tỉnh có 20/20 sở, ngành đã kiện toàn ban chỉ đạo hoặc tổ chỉ đạo và 10/10 địa phương thành lập ban chỉ đạo về Chuyển đổi số. Công tác Chuyển đổi số ở địa phương đang có những chuyển biến tích cực.
Ông Trần Văn Thu - Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cho biết: Đến nay, về hạ tầng số, toàn tỉnh có 100% số xã được phủ sóng 2G, 3G, 4G. Hạ tầng mạng cáp quang phủ đến 100% số xã và 99,7% số thôn được phủ sóng 4G. Hiện còn 48 thôn (điểm) lõm sóng băng rộng di động; trong đó, 20 thôn sẽ được các doanh nghiệp viễn thông di động triển khai phủ sóng trong 2 năm 2022-2023, còn 12 điểm chưa có điện và 16 thôn thuộc khu vực vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn, dân cư thưa thớt, dưới 50 hộ gia đình trong một thôn sẽ tiếp tục nghiên cứu, triển khai trong thời gian tới.
Toàn tỉnh có 66,44% dân số trưởng thành và 79,79% hộ gia đình có điện thoại thông minh, 48,33% hộ gia đình có cáp quang băng rộng.
Về nhân lực số, Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum đào tạo chuyên ngành Công nghệ thông tin (CNTT) cho 88 sinh viên và Trường Cao đẳng Cộng đồng tỉnh đào tạo nghề công nghệ kỹ thuật điện, điện tử trình độ trung cấp cho 12 học viên. Toàn tỉnh có 64 công chức, viên chức chuyên trách về Chuyển đổi số và 152 cán bộ kiêm nhiệm. Từ đầu năm đến nay, tỉnh cử 26 thành viên tổ giúp việc Ban Chỉ đạo tỉnh tham gia Chương trình bồi dưỡng theo Đề án 146 do Bộ TT&TT tổ chức thông qua Nền tảng học trực tuyến mở đại trà; có 10/10 huyện, thành phố thành lập 541 tổ công nghệ số cộng đồng với 2.446 thành viên.
|
Toàn tỉnh có 35 hệ thống thông tin; trong đó, đã phê duyệt 20 hệ thống thông tin cấp độ 2 và 2 hệ thống thông tin cấp độ 3. Hệ thống giám sát mã độc tập trung của tỉnh cài đặt được 5.528 máy tính và phát hiện, xử lý 16.373 mã độc trên các máy tính.
Mạng truyền số liệu chuyên dùng cấp I và II đã đến được 100% các đơn vị, cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh, huyện, xã. Trục kết nối chia sẻ dữ liệu LGSP Kon Tum đã khai thác hiệu quả để phục vụ nhu cầu kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước. Tỷ lệ dịch vụ công đủ điều kiện được cung cấp trực tuyến mức độ 4 đạt 100%, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến của tỉnh được tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 61,2%.
Số doanh nghiệp đăng ký sử dụng dịch vụ hóa đơn điện tử đạt 100%. Trên 98% doanh nghiệp tham gia khai thuế điện tử và trên 98% doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử. Các sàn thương mại điện tử như http://voso.vn có 876 sản phẩm, https: postmart.vn có 110 sản phẩm, https: kontumtrade.gov.vn có 658 sản phẩm của 428 doanh nghiệp.
Toàn tỉnh hiện có 83,6% dân số được tạo lập hồ sơ sức khoẻ, ứng dụng VssID - BHXH số trên điện thoại thông minh để sử dụng hình ảnh thẻ bảo hiểm y tế, thay cho thẻ bảo hiểm y tế bằng giấy để đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế và có 10/10 huyện, thành phố triển khai ký số chứng nhận tiêm trên nền tảng tiêm chủng Covid-19.
Ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh chủ động xây dựng kho học liệu số giáo dục các cấp học. Đến nay, đã hoàn thiện giai đoạn 1 với 2.007 video bài giảng, đồ dùng dạy và học liệu số cấp tiểu học; 173 video bài giảng cấp mầm non; 425 bài giảng cấp trung học phục vụ học sinh và giáo viên có thể tham gia học tập mọi lúc, mọi nơi.
Sở Tài nguyên và Môi trường triển khai công tác lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính trên địa bàn các huyện Tu Mơ Rông, Kon Plông, Ia H’Drai và xã Mô Rai, huyện Sa Thầy để phục vụ công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai; đồng thời, triển khai cập nhật, chỉnh lý trên 37.845 hồ sơ vào cơ sở dữ liệu đất đai hiện có trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, đến nay, việc tích hợp và chia sẻ cơ sở dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của địa phương còn chậm, cơ chế phối hợp cập nhật và chia sẻ cơ sở dữ liệu còn hạn chế; cơ sở hạ tầng nhiều cơ sở khám chữa bệnh, nhất là tuyến cơ sở chưa đảm bảo cho việc triển khai hoạt động tư vấn khám chữa bệnh từ xa. Nguồn nhân lực CNTT còn hạn chế, nên một số nhiệm vụ về lĩnh vực CNTT triển khai còn chậm. Nguồn vốn đầu tư ứng dụng CNTT chủ yếu là ngân sách địa phương, chưa thu hút được các nguồn vốn khác; kinh phí đầu tư, trang bị hạ tầng CNTT còn thiếu, nhất là cấp cơ sở như xã, phường và các đơn vị sự nghiệp. Các doanh nghiệp CNTT của tỉnh đa phần là doanh nghiệp nhỏ, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực mua bán sản phẩm, dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa lắp ráp thiết bị nhỏ lẻ; quy mô thị trường còn nhỏ, nên khó kêu gọi nguồn lực bên ngoài đầu tư phát triển công nghiệp CNTT tại địa phương.
Từ thực tế đó, Sở TT&TT kiến nghị Bộ TT&TT tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp phát triển hạ tầng viễn thông ở các vùng lõm sóng thông tin di động để phục vụ người dân, doanh nghiệp; hướng dẫn, hỗ trợ cung cấp khóa xác thực truy cập dịch vụ chính thức để trao đổi dữ liệu giữa hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh với hệ thống dịch vụ công của các bộ, ngành Trung ương qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia và hỗ trợ địa phương tập huấn về chuyển đổi số.
Vĩnh Hà