Dưới Tượng đài Bất khuất
Trong hành trình phía trước, hành trang của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum không chỉ là thế và lực hôm nay, mà còn có tinh thần, khí phách kiên cường, bất khuất của những chiến sĩ cộng sản tại “địa chỉ đỏ” Ngục Kon Tum.
|
Trưa 25/9, tôi lặng lẽ dạo bước dưới tán lá mát rượi trong Di tích lịch sử Quốc gia Ngục Kon Tum. Xa xa, nắng trải rộng trên những cánh đồng, nhuộm vàng dòng Đăk Bla êm ả trôi. Gió từ sông Đăk Bla quấn quýt trên những tầng cây, hát mãi khúc tráng ca bất diệt về khí tiết người cộng sản.
Đứng dưới Tượng đài Bất khuất, tôi ngắm cờ và hoa rực rỡ. Sáng nay, Tỉnh ủy-HĐND-UBND-Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh vừa long trọng tổ chức Lễ đón nhận Danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" cho Tập thể chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày tại Ngục Kon Tum.
Sắc thắm của cờ, hương thơm của hoa ở mảnh đất thiêng này càng làm không gian thêm tĩnh sâu, thêm thấm đẫm hồn người, hồn đất, khơi dậy dòng cảm thức và suy tưởng.
|
Suốt 19 năm (1919-1934), khu đất nằm ven sông Đăk Bla này là một ngục tù, và 2 năm (1930-1931) nơi đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, chất chứa bao đau thương, độc ác, tàn bạo.
Nhưng cũng là nơi máu của bao chiến sĩ cộng sản và tù chính trị đã đổ vì tranh đấu cho độc lập, tự do. Nhiều người đã ngã xuống trong 2 cuộc đấu tranh Lưu huyết và Tuyệt thực, thịt xương hòa trong đất đai, cây cỏ.
Còn nhớ, lần đầu tiên viếng Ngục Kon Tum, tôi đã được giới thiệu rằng Ngục Kon Tum có nhiều cái “nhất”: Là nơi đày ải, giam giữ tù chính trị được lập sớm nhất ở khu vực Tây Nguyên; là nơi giam giữ những người tù chính trị được xem là nguy hiểm nhất; số lượng tù cũng nhiều nhất ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Cũng lần đầu ấy, khi thắp nén nhang thơm trước bia mộ, thành kính nghiêng mình trước Tượng đài Bất khuất, tôi đã được lưu vào trong tim mình cả nỗi đau lẫn niềm tự hào về những bậc tiền nhân, về chí khí ngút trời của chiến sĩ cộng sản kiên trung.
Từ đó, mỗi lần đến với Ngục Kon Tum, dù chỉ kịp thắp nén tâm nhang dâng lên anh linh các bậc tiền bối cách mạng rồi vội vã đi, hay có thời gian dạo bước dưới những tán cây, thăm khu trưng bày hiện vật thì tôi vẫn như nghe trong gió lời tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp cùng với chế độ nhà tù tàn bạo, phi nhân tính của chúng.
Rồi như nghe gió đang kể về cuộc đấu tranh đầy cam go, ác liệt với kẻ thù trong chốn ngục tù; về chính nghĩa và khí tiết cách mạng sáng ngời của những nguời cộng sản kiên trung đã làm cho kẻ thù phải khiếp phục.
Từng tấc đất nơi đây không chỉ lưu giữ xương máu của các bậc tiền bối cách mạng mà còn là biểu tượng về tinh thần yêu nước, ý chí kiên trung của người chiến sĩ cộng sản.
Ở nơi này, với chính sách khổ sai, đàn áp, chỉ trong 3 năm (từ năm 1930-1933) đã có hơn 300 tù chính trị ngã xuống nơi "rừng thiêng nước độc" khi bị thực dân Pháp đưa đi mở cung đường 14 (đoạn Đăk Sút, Đăk Tao, Đăk Pao, Đăk Pét). Theo "Ngục Kon Tum" của cụ Lê Văn Hiến, trong số 295 người đi Ðăk Pék đợt một thì đã có 215 người chết.
Ở nơi này, có những chiến sĩ cộng sản tiêu biểu, như Hồ Tùng Mậu, Ngô Đức Đệ, Đặng Thái Thuyến, Nguyễn Huy Lung, Trương Quang Trọng, Lê Viết Lượng... mà đến nay tên tuổi của các bậc tiền bối cách mạng ấy vẫn gắn bó với Kon Tum qua những tên đường.
Ở nơi này, bao chiến sĩ cộng sản đối mặt với quân thù từng phút, từng giây. Cuộc sống ngục tủ khổ sai, với gông cùm, báng súng, lưỡi lê và máu không thể nào khuất phục được những chiến sĩ yêu nước kiên cường.
Nơi địa ngục trần gian vẫn vang lên tiếng hát, tiếng đọc thơ yêu đời, yêu cuộc sống. Tại đây, tù chính trị đã sáng tạo ra hình thức sinh hoạt văn nghệ gọi là "Tao đàn ngục thất" với mục đích nuôi dưỡng ý chí kiên cường, bất khuất, cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu.
Nơi địa ngục trần gian vẫn sáng rực khí phách hiên ngang, bất khuất và tinh thần yêu nước không bao giờ tắt. Họ chiến đấu và hy sinh cho những người còn sống, cho một ngày đất nước đón ánh hào quang của độc lập, tự do, của non sông thống nhất.
Tại đây, ngày 25/9/1930, chỉ ít lâu sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930), chi bộ cộng sản đầu tiên ở Kon Tum được thành lập: Chi bộ binh.
Người có công đầu tiên và lớn nhất trong sự kiện này chính là tù nhân chính trị Ngô Đức Đệ. Tại đây, với bản lĩnh, kinh nghiệm và sự khôn khéo của người chiến sĩ cộng sản, đồng chí Ngô Đức Đệ đã tuyên truyền và cảm hóa một số cai, đội, binh lính ở nhà lao thành những người yêu nước tiến bộ rồi bồi dưỡng, thử thách, để đến giữa tháng 9/1930, lần lượt kết nạp đội Thơ (Huỳnh Đăng Thơ), cai Liễu (Huỳnh Liễu), cai Cừ (Nguyễn Cừ) vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ binh, nhiều cuộc đấu tranh với những hình thức khác nhau đã liên tục nổ ra tại Ngục Kon Tum. Và đỉnh điểm là cuộc đấu tranh Lưu huyết ngày 12/12/1931, gây chấn động không chỉ ở Kon Tum, ở Việt Nam mà trên toàn cõi Đông Dương.
Ðỉnh điểm là sáng 12/12/1931, tù chính trị đấu tranh quyết liệt phản đối việc lên Đăk Pét lần 2, lính Pháp đã nã súng vào nhà ngục. Kết quả cuộc đấu tranh kiêu dũng ấy có tám người chết, tám người bị thương.
Sử sách sau này gọi bằng cái tên bi tráng "Cuộc đấu tranh lưu huyết", gây chấn động không chỉ ở Kon Tum, ở Việt Nam mà trên toàn cõi Đông Dương, gắn liền với tên tuổi nhà cách mạng Trương Quang Trọng.
Theo tư liệu có được, tinh thần anh dũng của những người ngã xuống trong Cuộc đấu tranh Lưu huyết đã truyền thêm sức mạnh cho những người còn sống tiếp tục dũng cảm đấu tranh.
Nhân việc đắp phần mộ các liệt sĩ hy sinh trong Cuộc đấu tranh Lưu huyết, mọi người ra đề "Viếng mộ liệt sĩ", rồi mỗi người làm một bài thơ dự thi. Trong cuộc thi lần đó, bài thơ của nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu được trao giải Nhì:
Tám mồ liệt sĩ táng cùng nhau
Nấm mới vun thêm, giậu mới rào
Thể phách dẫu vui miền đất trắng
Tinh thần còn tỏ giữa trời cao
Khí xông mất vía phường cai trị
Máu đổ kinh hồn tụi xếp lao
Sớm tối đi về lòng thổn thức
Thấy người nằm đó, nghĩ mình sao?
Như được truyền thêm sức mạnh, số tù nhân còn lại tiếp tục tuyệt thực để phản kháng sự áp bức bất công. Và một lần nữa, vào ngày 16/12/1931, thực dân Pháp lại xả đạn vào lao tù giết chết bảy người và bảy người bị thương. Sau được gọi là cuộc "Ðấu tranh Tuyệt thực".
Mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian chưa đến một năm, nhưng Chi bộ binh là "hạt giống đỏ nảy mầm xuân" cho quê hương Kon Tum.
|
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum tập I (1930-1975) ghi nhận, sự ra đời của chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ngay trong năm 1930 là sự kiện có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình phát triển của phong trào cách mạng ở Kon Tum; là kết quả của một quá trình vận động, phát triển tất yếu của phong trào cách mạng tỉnh Kon Tum, từ tự phát đến tự giác, từ chủ nghĩa yêu nước đến giác ngộ cách mạng, đi theo con đường của Đảng Cộng sản.
Năm 2006, Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIII đã thống nhất lấy ngày 25/9/1930 là Ngày truyền thống của Đảng bộ tỉnh.
54 năm sau, ngày 16/11/1988, Di tích lịch sử Ngục Kon Tum được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Với vai trò, ý nghĩa, giá trị lịch sử quan trọng, thời gian qua, Đảng, Nhà nước và tỉnh Kon Tum đã hết sức quan tâm chỉ đạo và đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, tư liệu hóa, xây dựng; từng bước thực hiện các hạng mục tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích.
Từng vầng nắng tháng Chín tỏa xuống, chiếu sáng Tượng đài Bất khuất. Trong hành trình phía trước, hành trang của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum không chỉ là thế và lực hôm nay, mà còn có tinh thần, khí phách của những chiến sĩ cộng sản tại Ngục Kon Tum.
Hồng Lam