Cảm ơn người cầm súng cho ta được cầm bút
Những chuyến đi, những cuộc gặp gỡ với các cựu chiến binh, những người đã trải qua lửa đạn luôn để lại trong tôi nhiều suy ngẫm.
|
Hơn hai năm công tác tại Báo Kon Tum, tôi được giao phụ trách mảng liên quan đến cựu chiến binh. Ban đầu, tôi cho đây là lĩnh vực khó viết, bởi vì tôi chỉ biết về chiến tranh qua sách vở, phim tài liệu hoặc các dịp lễ kỷ niệm. Nhưng càng đi, càng trò chuyện, mỗi lần tiếp xúc với các cựu binh lại là một lần tôi được học lại lịch sử, không phải qua con chữ mà qua ký ức sống động của những người từng bước qua lửa đạn.
Lần đầu phỏng vấn, tôi lắng nghe bằng sự tò mò, nhưng càng về sau, tôi lắng nghe bằng sự trân trọng. Họ kể chuyện với giọng chậm rãi, ánh mắt sáng lên khi nhắc về đồng đội, về chiến trường, về những tháng năm gian khó nhưng đầy tự hào. Tôi hiểu rằng họ không kể ra để khoe khoang, mà để nhắc nhở chúng tôi thế hệ trẻ rằng, hòa bình như ngày hôm nay không dễ mà có được.
Tôi nhớ lần trò chuyện với một cựu chiến binh, ông chậm rãi nói: “Ngày đó chỉ mong còn sống, mong đất nước được hòa bình, độc lập. Bây giờ thấy con cháu được học hành, được cầm bút viết về hòa bình, về cuộc sống yên vui, thấy xứng đáng lắm, cháu à”.
Câu nói đơn giản đó khiến tôi suy nghĩ nhiều về giá trị của hòa bình ngày nay. Hòa bình không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả của biết bao máu xương, nước mắt và sự hy sinh của các thế hệ đã hiến dâng tuổi trẻ cho đất nước. Chính nhờ sự hy sinh ấy, thế hệ chúng tôi mới có cơ hội sống trong hòa bình, được mơ ước và thực hiện những điều mình yêu.
Có lần, tôi đến thăm nhà một hội viên cựu chiến binh có mô hình chăn nuôi mới do Hội Cựu chiến binh xã giới thiệu. Khi tôi gõ cửa, một người đàn ông chống nạng bước ra. Thấy tôi nhìn ông và chiếc chân giả đặt ở góc nhà với vẻ lúng túng, ông mỉm cười, đi tới lấy chân giả đeo vào rồi nói: “Không sao đâu, chú quen rồi. Vào nhà mình nói chuyện. Cháu có gì muốn hỏi cứ hỏi”. Ông còn vỗ vai tôi như để động viên.
Sau vài câu hỏi mà tôi đưa ra, ông bắt đầu kể tôi nghe về những tháng ngày gian khó trên chiến trường, những kỷ niệm mà ông luôn giữ trong lòng. Rồi ông chuyển sang chia sẻ về mô hình nuôi hươu lấy nhung và cách ông giúp đỡ bà con trong thôn cùng phát triển mô hình chăn nuôi mới này.
Câu chuyện của ông nhẹ nhàng mà đầy xúc động, khiến tôi nhận ra ý chí, nghị lực kiên cường của những người lính Cụ Hồ, không chỉ trên chiến trường năm xưa mà còn trong cuộc sống bình yên hôm nay. Từ lần gặp đó, tôi học được cách bình tĩnh hơn khi đối mặt với mọi khó khăn và càng thêm ngưỡng mộ ý chí kiên cường của các cựu chiến binh trong cuộc sống hiện tại.
|
Tôi may mắn có được nhiều cuộc gặp gỡ như vậy. Có người từng là lính trinh sát dũng cảm giữa rừng sâu bom đạn, nay là tấm gương sáng, đi đầu trong phát triển kinh tế, luôn sẵn sàng giúp đỡ bà con, góp tiền xây nhà tình nghĩa cho người nghèo ở địa phương. Có người dành cả tuổi già để miệt mài tham gia các buổi nói chuyện truyền thống, truyền ngọn lửa yêu nước cho lớp trẻ.
Mỗi người một hoàn cảnh, một câu chuyện riêng, nhưng họ đều có điểm chung là ý chí kiên cường không chịu khuất phục và sự cống hiến thầm lặng cho quê hương. Khi viết về họ, tôi tự nhủ phải viết làm sao để truyền tải được ý chí vượt khó, tinh thần tự lực tự cường của những người lính Cụ Hồ để thế hệ trẻ noi theo.
Tôi chưa từng cầm súng ra trận, chưa biết cảm giác nín thở giữa làn đạn, chưa từng sống trong khoảnh khắc mong manh giữa sự sống và cái chết. Nhưng qua những cuộc gặp gỡ, qua ánh mắt, giọng kể và những khoảng lặng của các cựu chiến binh, tôi phần nào cảm nhận được ký ức của một thời bom đạn.
Tôi biết mình còn non nghề, vẫn đang học cách lắng nghe và chuyển tải những điều chân thật nhất của cuộc sống thành con chữ. Nhưng nếu vẫn giữ được sự rung động trước những câu chuyện người thật, việc thật, tôi tin những điều mình viết sẽ có ý nghĩa.
Những câu chuyện, ánh mắt, nụ cười của các cựu chiến binh mà tôi đã từng gặp sẽ mãi là hành trang quý giá trên hành trình làm nghề của mình. Cảm ơn những người đã cầm súng để hôm nay chúng tôi được cầm bút.
Y Đô