Tiếng gọi của lương tri
Năm 2005, trong một chuyến công tác lên xã Sa Nghĩa (huyện Sa Thầy), tôi được lãnh đạo xã tặng một bức ảnh đen trắng cặp song sinh Việt-Đức. Trong ảnh, Việt và Đức có hình hài khác thường, dính liền nhau vùng bụng chậu, chung một đôi chân.
Cầm bức ảnh nhỏ trên tay, tim tôi như thắt lại. Việt và Đức chào đời ngày 25/2/1981 ở xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy. Theo tư liệu của Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, mẹ của 2 anh em trồng lúa trong vùng đất từng bị chất độc màu da cam sau khi chiến tranh đã kết thúc. Thậm chí, bà còn uống nước trong khu vực đó.
Ngày 4/10/1988, Việt và Đức được phẫu thuật tách ra thành công. Sức khỏe của Việt yếu đi dần sau ca phẫu thuật, và mất vào năm 2007, sau 19 năm sống thực vật.
Những năm đầu thập niên 2000, tôi thường đi công tác tuyến Sa Thầy, rồi vòng về Đăk Tô. Bao giờ cũng thấy ám ảnh khi nhìn dãy đồi Sạcly trọc lóc không một bụi cây, “khoe” màu đất đá xám xịt. Nơi đây từng hứng chịu nhiều đợt rải chất độc hóa học của máy bay Mỹ trong chiến tranh.
Sau này, mỗi lần đi công tác hướng Pô Kô (huyện Đăk Tô), nhìn đồi Sạcly, tôi vẫn thấy ám ảnh. Dù nó đã được phủ kín màu xanh của rừng thông.
|
Hôm nay, ngày 10/8/2024, nhìn bức ảnh đen trắng để trong ngăn tủ bàn làm việc, tim tôi vẫn thắt lại.
Còn nhiều câu chuyện, hình ảnh về hậu quả nặng nề và đau đớn của chất độc da cam mà ta đã và đang phải thấy, đang bị ám ảnh.
Cách đây 63 năm, ngày 10/8/1961, các chuyến bay chở những thùng chất diệt cỏ cất cánh, mở đầu cuộc chiến tranh hóa học có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người được Mỹ khởi động tại Việt Nam.
Những cánh rừng dọc đường 14 ở Kon Tum là nơi hứng chịu đầu tiên, và dai dẳng nhiều năm sau đó!
Liên tiếp trong các năm 1962, 1963, 1964, 1965, 1969, 1970 và 1971, hơn 20.000 chuyến bay đã rải 31 nghìn lít chất độc màu xanh lá, 464 nghìn lít chất độc màu hồng, 548 nghìn lít chất độc màu tím, 8,2 triệu lít chất độc màu lam, 19,8 triệu lít chất độc màu trắng, 44 triệu lít chất độc màu da cam xuống núi rừng, sông ngòi, đồng ruộng miền Nam, Tây Nguyên.
Riêng ở Kon Tum, các cánh rừng đã phải gánh chịu 346.000 lít chất độc hóa học, trong đó có hơn 34.000 lít chất độc da cam. Chất độc da cam là một trong 4 loại chứa dioxin, lần lượt theo hàm lượng từ cao tới thấp, là hồng, xanh lá, tím và da cam.
Theo công bố của một tạp chí khoa học thì tổng lượng dioxin Việt Nam hứng chịu là vào khoảng 370kg. Tại Hoa Kỳ, hàm lượng dioxin ở ngưỡng cho phép là 0,0064 Picogram/1 kg cơ thể người (Picogram là đơn vị đo khối lượng rất nhỏ, chỉ bằng 1/1.000.000 gram). Như vậy, với lượng dioxin rải ở Việt Nam, nếu chia bình quân thì 1kg trọng lượng cơ thể người Việt Nam phải chịu 900 picogram chất dioxin.
Những màu sắc vốn đem lại nét đẹp cho cầu vồng sau mưa lại trở thành biểu tượng của chết chóc, đau thương kéo dài nhiều thế hệ. Rất nhiều chiến sĩ Quân giải phóng đã đi dưới “cầu vồng hóa học” rực rỡ ấy.
Nhiều người trong số họ biết đó là thuốc diệt cây cỏ, nhưng không biết rằng thứ chất lỏng ấy sẽ quyết định cuộc đời mình nhiều năm về sau.
Chiến tranh kết thúc, nhiều người giải ngũ, lấy vợ sinh con. Trong suy nghĩ của họ không hề có khái niệm về “chất độc da cam”, dù các con họ đều có khuyết tật bẩm sinh.
Thế hệ thứ hai lớn lên, lần lượt lập gia đình. Thế hệ ba cũng lần lượt ra đời, may thay có những đứa lành lặn, nhưng có những đứa bị dị tật, khuyết tật về vận động, về nghe nói (như mù lòa, câm điếc); thiểu năng trí tuệ, tâm thần, một số bệnh ung thư, tai biến sinh sản.
|
Số liệu đến tháng 7/2024, toàn tỉnh Kon Tum có gần 8 nghìn người nghi bị phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin. Hội Nạn nhân chất độc da cam tỉnh tin rằng trong đó có nhiều nạn nhân thế hệ thứ 3, thậm chí thứ 4.
Nhưng cho đến nay, bất chấp nỗ lực đấu tranh đòi công lý của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam và hàng triệu nạn nhân, Chính phủ Mỹ vẫn từ chối nhận trách nhiệm hoặc thiện chí bồi thường. Năm 2009, đơn kiện của các hội nạn nhân Việt Nam đại diện cho trên 4 triệu nạn nhân đã bị Tòa án Tối cao Mỹ bác.
Điều rất trân trọng là, ngay sau khi chiến tranh kết thúc, Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề giải quyết hậu quả chất độc da cam; xác định khắc phục hậu quả chất độc hóa học là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
Theo đó, đã xây dựng và thực thi nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và kịp thời, như trợ cấp hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng; dạy nghề, tạo việc làm; miễn, giảm giá vé khi tham gia giao thông.
Ở Kon Tum, các chính sách hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam luôn được quan tâm thực hiện hiệu quả. Không thể đo đếm được tình cảm, sự hỗ trợ của chính quyền, cộng đồng và người dân dành cho nạn nhân và gia đình nạn nhân da cam trong những năm qua. Từ đó động viên, khơi dậy nội lực, tinh thần vượt khó vươn lên của chính gia đình và nạn nhân da cam.
Ngày 10/1/2004, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam chính thức được thành lập. Ngày 25/6/2004, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và 32/32 tổ chức thành viên của Mặt trận nhất trí lấy ngày 10/8 hằng năm là Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam.
Những năm qua, ngày 10/8 đã thực sự trở thành ngày “chung tay xoa dịu nỗi đau da cam”. Tinh thần ấy cần được cổ vũ, lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân, khơi dậy lương tâm và trách nhiệm của mỗi người đối với nạn nhân chất độc da cam, tiếp thêm cho họ niềm tin và tình yêu cuộc sống, khát vọng và ý chí vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Nhưng tính đến nay, dù đã nhận được sự quan rất lớn của các cấp chính quyền cũng như sự nỗ lực của các cấp hội nạn nhân chất độc da cam trong việc củng cố, hoàn tất hồ sơ, thì toàn tỉnh mới có hơn 1.000 nạn nhân chất độc da cam được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng.
Vì vậy, làm thế nào để tất cả nạn nhân chất độc da cam được hưởng đúng và đủ chính sách; nạn nhân da cam thế hệ thứ ba được công nhận, bổ sung vào chính sách vẫn là điều đau đáu của cấp ủy, chính quyền các cấp và của mỗi người.
Đó cũng là lời kêu gọi của lương tri!
Hồng Lam