Trong nắng tháng Ba
Tháng Ba, tôi thường được đọc, được nghe những câu chuyện về một thời lửa đạn, về ngày giải phóng tỉnh. Tất cả đều là những lát cắt, chi tiết đắt, được chọn lọc một cách tự nhiên và đầy chân thực. Sau đó, việc của tôi chỉ là sắp xếp các lát cắt, các chi tiết ấy lại thành một câu chuyện.
Tôi lặng lẽ ngắm Đạt đang cẩn thận cắm cờ Tổ quốc trước nhà. Những ngày này, mỗi con đường, khoảnh sân, góc phố đều rực đỏ sắc cờ kiêu hãnh tung bay trong nắng tháng Ba.
Thật tình, lúc này tôi rất thèm được thay Đạt cắm lá cờ Tổ quốc. Hay đúng hơn, từ lúc Đạt lấy lá cờ ra khỏi túi, cẩn thận luồn vào cán mà tôi cứ thầm mong Đạt đưa cờ cho tôi và nói: Anh treo cờ giúp em.
Tất nhiên mong ước vẫn chỉ là… mong ước, bởi Đạt không hề có ý nghĩ “nhường nhịn” ấy. Thế là tôi bằng lòng với việc chụp ảnh. Vừa buộc cán cờ, Đạt vừa nói: Mọi khi Bố em tự treo cờ, không cho ai làm thay. Nhưng mấy hôm nay ông bị ốm, không thực hiện được mới để em làm.
Tôi biết bố Đạt. Ông nguyên là lính Sư đoàn 968, chiến đấu nhiều năm ở chiến trường Hạ Lào, bảo vệ sườn Tây đường Hồ Chí Minh. Và ngày 16/3, ông có mặt trong đoàn quân từ các hướng tiến vào giải phóng thị xã Kon Tum ngày 16/3/1975.
|
Thỉnh thoảng, chúng tôi đến nhà Đạt chơi. Tôi thích ngắm ông cụ mỗi khi kể lại chuyện chiến đấu cho đám cháu nội ngoại lớn có, nhỏ có nghe. Những mái tóc xanh chụm sát mái tóc bạc. Thỉnh thoảng, những khán giả nhí vỗ tay, reo hò vang nhà.
Tháng 11/1974, Sư đoàn 968 thay Sư đoàn 320 tác chiến tại chiến trường Tây Nguyên; sau đó là thay Sư đoàn 10 thực hiện nghi binh ở hướng Bắc trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Cùng lúc với quá trình chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên mở ra ở Buôn Ma Thuột, tại tỉnh Kon Tum, mục tiêu giải phóng thị xã đã được vạch sẵn. Từ các hướng đã định, các cánh quân của ta vừa tác chiến đánh địch phối hợp với mặt trận chung giữ thế chiến trường, vừa triển khai các hoạt động tấn công, vây ép chờ thời cơ thuận lợi đánh vào trung tâm nội thị, giải phóng hoàn toàn thị xã.
Ngày 4/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu. Lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với Sư đoàn 968 và các đơn vị chủ lực Mặt trận B3 liên tục hoạt động nghi binh, thu hút địch, chia cắt, cô lập và tiêu diệt địch tại chỗ.
Tình hình chiến trường có những diễn biến mau lẹ và thuận lợi, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Kon Tum gấp rút chuẩn bị phương án giải phóng thị xã Kon Tum. Lúc này, thị xã Kon Tum là hang ổ cuối cùng tập trung mọi binh lực, hoả lực của địch.
Trước sức tấn công mạnh mẽ của ta từ các hướng, từ chiều 16/3/1975, địch ồ ạt tháo chạy khỏi thị xã theo đường 14 sang Plei Ku, đi Cheo Reo. Bộ đội ta vừa chặn đánh quân địch tháo chạy, vừa chuẩn bị tấn công vào các mục tiêu trung tâm đầu não của địch ở thị xã.
Đêm 16/3/1975, cùng với lực lượng vũ trang, chính trị của tỉnh Kon Tum, đơn vị ông thực hiện đột kích vào thị xã Kon Tum, chiếm lĩnh và làm chủ các khu vực quân sự và chính trị trọng yếu, tiêu diệt các ổ đề kháng cuối cùng của địch, nhanh chóng triển khai chiếm toàn bộ thị xã Kon Tum.
Thị xã Kon Tum hoàn toàn giải phóng. Đơn vị ông thần tốc tiến vào Pleiku, sau đó đánh hạ hàng loạt căn cứ địch, như Mang Giang, An Khê, Bình Khê (dọc đường 19), tiến xuống đồng bằng tham gia giải phóng Bình Định, Phù Cát, Quy Nhơn, Cam Ranh... Nhưng ngay trước giờ chiến thắng, một mảnh đạn pháo đã cắt đứt tay trái của ông.
|
Có những chuyện ông chỉ kể với chúng tôi, thường là sau bữa cơm thân mật ngày 16/3, được ông duy trì từ ngày vào Kon Tum ở với Đạt. Trong những bữa cơm ấy có náo nức, cũng có sự ngậm ngùi vì một phần cơ thể của người thân gửi lại chiến trường; có tiếng cười và cũng có những giọt nước mắt khóc thương người đã khuất ở tuổi đôi mươi.
Trong hành trang đơn sơ của ông có cuốn nhật ký bị cháy một góc và lỗ chỗ vết đạn mà ông quý hơn vàng.
Tôi đã khóc trong lần đầu tiên được đọc những dòng chữ, lúc cẩn thận, rõ ràng, khi vội vàng, nguệch ngoạc chất chứa cảm xúc: “Sau bao ngày đêm chặt cây, đào hầm ém quân trong rừng vừa đánh địch vừa chờ thời cơ giải phóng Kon Tum, không thể nào quên cảm xúc khi đặt những bước chân đầu tiên lên mặt đường nóng hầm hập của thị xã”.
Và đây nữa: “Trong ngày lịch sử ấy, lạ kỳ thay khi có những sự đóng góp thầm lặng nhưng ý nghĩa của những người “bên kia chiến tuyến”. Vì lương tâm, lòng chính nghĩa và tình yêu quê hương, họ đã âm thầm giúp đỡ cách mạng để ngày chiến thắng bớt đi những mất mát, thiệt hại”.
Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum yêu dấu luôn có những mốc thời gian trọng đại mở ra trang sử mới vô cùng rạng rỡ trong hành trình phát triển. Và 16/3/1975 là một trong những ngày như vậy.
Mỗi năm khi tháng Ba về, tôi đều được nghe, được thấy những hình ảnh đầy ý nghĩa về ngày giải phóng tỉnh. Và nhận ra rằng, bằng cách này hay cách khác, ngày giải phóng cách đây 50 năm luôn được nhớ đến, luôn là niềm tự hào trong trái tim mỗi người.
Trong nắng tháng Ba, cờ Tổ quốc ngời đỏ giữa đất trời. Đi dưới muôn ngàn ánh sao, tôi như đắm chìm trong hào khí Việt Nam tỏa lan từ mỗi ánh mắt nhìn, mỗi nụ môi cười khi gặp gỡ, từ rộn ra thanh âm cuộc sống.
Trong nắng tháng Ba, nhìn mỗi người đều thấy yêu thương hơn, đều thấy “những môi cười là bó hoa đời tươi thắm tuyệt vời, đẹp niềm tin mãi mãi”, như lời bài hát Đất nước trọn niềm vui.
Trong suốt chiều dài lịch sử, đất nước ta, dân tộc ta đã khẳng định ý chí quật cường, bản lĩnh vươn lên mạnh mẽ, không khuất phục trước bất cứ kẻ thù, bất cứ khó khăn nào.
Hành trang sau chiến tranh là những trang hào hùng về lịch sử cách mạng và những kinh nghiệm cùng bài học sâu sắc về đột phá, đổi mới sáng tạo để vượt lên.
Và trọng trách ấy đã và đang được các thế hệ ngày nay tiếp bước để dựng xây đất nước bằng khát vọng về một Việt Nam hùng cường.
THÀNH HƯNG