Nghĩa xóm, tình làng
Nói về tình làng nghĩa xóm, hay nói chuyện về hàng xóm của gia đình tôi, bao nhiêu cũng không đủ, mấy ngày cũng không hết. Đó là một gian đầy nhớ nhung, chật nghĩa tình trong tâm trí tôi.
Như mọi năm, chuẩn bị về quê ăn Tết, tôi lại háo hức đi tìm mua quà tết tặng ba mẹ, anh chị em. Cũng không quên tìm mua những món quà về để ba má biếu bà con xóm giềng.
Mười mấy năm xa quê, Tết nào trở về nhà tôi cũng lỉnh kỉnh đồ đạc, nào là đồ cúng ông bà tổ tiên, nào là quà biếu người thân. Dù bây giờ ở quê cái gì cũng có. Ba má cũng dặn đi dặn lại “Tết đến xe cộ đông đúc, không mang đồ gì về cho cực nghen con”.
Về đến đầu xóm, tôi đã thấy không khí Tết ngập tràn. Nhà nhà dọn dẹp sạch sẽ, trưng hoa cúc, vạn thọ trước cổng, trong sân. Những cây mai trong vườn cũng bắt đầu e ấp nụ vàng chuẩn bị khoe sắc.
Nhà tôi rất đông vui. Nhìn cảnh ấy tôi sực nhớ hôm trước ba gọi điện nói, hôm nay mấy gia đình hàng xóm đụng heo ăn Tết, còn xúm vào gói bánh tét để nấu chung, nhà vài ba cây. Mỗi người một việc làm không khí chuẩn bị Tết càng nhộn nhịp, rộn ràng.
|
Trong khi tôi sà vào chỗ mấy bà, mấy dì gói bánh tét thì má sắp từng phần quà tôi mua ra, để chút nữa đem đến từng nhà hàng xóm để biếu.
Mỗi khi nói về xóm mình, tôi luôn tự hào về tình nghĩa, sự gắn kết, đùm bọc, chia sẻ với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Đúng là tắt lửa tối đèn có nhau. Từ khi còn nhỏ, tôi đã cảm nhận thấy rõ điều ấy.
Nhà ai sửa nhà, cả xóm đến giúp. Cần cây làm kèo, làm cột, nhà chú Mười có sẵn trong vườn, cứ đến chặt; thiếu tôn, thiếu gạch, nhà thím Bảy hồi lâu làm nhà, đang còn dư một ít, tới lấy về xài đỡ. Cứ như thế, giản dị và nhẹ nhõm mà sâu nặng nghĩa tình.
Nhà ai có cưới hỏi, giỗ chạp hay việc lớn phải đãi tiệc, các ông, các chú lo làm việc nặng; còn các bà, các thím rửa rau, làm cá, nấu nướng, rồi khi hết khách thì rửa chén đĩa, dọn dẹp giúp chủ nhà.
Những ngày mùa Đông, quê tôi thường có mưa và gió lạnh. Tối đến, ba tôi chế bình trà ngon, mấy bác mấy chú tới chơi, quây quần lại với nhau nói chuyện. Chúng tôi vừa học vừa hóng chuyện mùa vụ, chuyện gia đình. Bên ngoài mưa gió lạnh run đấy, nhưng bên trong ấm áp vô cùng.
Thành thử ra, xa quê nhưng mỗi lần nhắc đến những chuyện của xóm, tôi lại nhớ rành rành cô Ba hay la rầy, cau có nhưng thảo ăn, thường kêu đám nhỏ vô nhà cho trái ổi, trái táo; chú Tám cởi lởi, hay kể chuyện hài; dượng Tư nghiêm nghị, thường răn bảo điều hơn lẽ thiệt.
À, không thể quên bà Năm, ở sát nhà tôi. Bà Năm hiền lành, làm mấy thứ bánh quê ngon số một trong cảm nhận của chúng tôi. Hàng ngày, bà lụi hụi làm bánh in, bánh ít, bánh ổ, bánh tráng nước dừa bán ở chợ. Và chúng tôi thường được bà “chiêu đãi”, nên căn nhà nhỏ của bà như là thiên đường vậy.
Nhưng tôi nhớ nhất là dịp Tết!
Khi ấy, nhà nhà, người người chộn rộn hẳn lên, tất bật hẳn lên lo chuẩn bị Tết. Nhưng không bởi thế mà “tạm quên” xóm giềng, mà ngược lại, càng thêm gắn bó hơn.
Cô Ba ở sát nhà tôi, có tiếng là người nấu thịt kho tàu ngon nhất nhì trong xóm. Mỗi dịp Xuân về Tết đến, cô phải nấu một nồi thịt kho tàu thật to. Cô nói, nấu món thịt kho tàu rất kỳ công, nên đã không làm thì thôi, đã nấu rồi thì nhiều một chút cho bõ công, với lại còn chia cho con cháu và biếu xóm giềng ăn Tết nữa.
|
Khi cô nấu xong, sẽ chia thành từng nồi nhỏ, một số cho các con đem về, còn lại, cô tự tay đem sang từng nhà. Tôi nhớ, hồi còn nhỏ, đây là món quà tết thật ý nghĩa với trẻ con. Hít hà mùi thơm phưng phức bay ra từ nồi thịt kho tàu mà đứa nào đứa ấy thấy đói cồn cào.
Việc làm ấy vẫn được cô Ba duy trì cho đến nay. Ngồi gói bánh tét ở nhà tôi, cô Ba cũng nói rằng, vài hôm nữa sẽ nấu thịt kho tàu. Mọi người đều cười, nói thịt kho tàu cô nấu là số một.
Còn thím Sáu, một phụ nữ hiền hậu, lại có món bánh thuẫn ngon hết biết. Tết năm nào thím cũng làm bánh thuẫn, trước cúng gia tiên, sau biếu xóm giềng. Tôi biết, để có những cái bánh ngon lành ấy, thím Sáu đã phải đánh bột từ hôm qua. Bột trứng dẻo nhẹo, đánh mỏi nhừ tay, thì bột mới dậy. Than rực dưới đáy khuôn bánh bằng gang, thím ngồi làm luôn tay, đổ bột, lật khuôn cho hai mặt bánh vàng đều.
Những mẻ bánh đầu hoặc khét quá hoặc chưa được vàng ươm như ý, thím để ăn, lựa những mẻ bánh ngon cất riêng cúng gia tiên. Bánh đem biếu cũng phải là những mẻ bánh đẹp nhất.
Làm bánh, nói gọn vậy mà có bao nhiêu chuyện lắt nhắt phải lo. Ngày còn nhỏ, mỗi lần thím làm bánh thuẫn là chúng tôi ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng lấm lét chìa tay xin thím cái bánh xấu chứ không phụ được gì. Thím nói “mấy đứa lo học, mai mốt biết còn làm”.
Còn ba tôi tối ngày chăm chút mấy bụi chuối chát, vườn rau xanh. Để mai mốt sẽ cắt chuối, hái rau đem biếu mỗi nhà mỗi ít, gọi là ăn lấy thảo- ba nói như vậy.
Má tôi thì làm mứt dừa. Gì chứ dừa thì ở quê tôi sẵn lắm. Nhà tôi cũng có nguyên một vườn. Gần Tết, má nói ba nhờ người chặt dừa xuống, chọn những quả dừa bánh tẻ, tôi nghe vậy thôi chứ nào biết dừa bánh tẻ trông nó thế nào, nhưng ba thì nhìn rất giỏi, chọn trúng những quả ngon nhất cho má làm mứt.
Thôi thì công đoạn làm mứt dừa tôi không kể ra nữa, vì má thì nói dễ, còn tôi thì thấy khó, thấy phức tạp. Khó nhất là để có được những mẻ mứt thơm ngon, lên màu trắng ngà quyến rũ.
Tôi chỉ thích cái đoạn đem hũ mứt tết, loại hũ thủy tinh má mua ở chợ về cọ rửa sạch sẽ, lau khô rồi cho mứt vào, đậy kín, đem biếu hàng xóm. Bao giờ tôi cũng được khen, được mời Tết sang nhà chơi, và nhất định sẽ được lì xì.
Mải nghĩ chuyện, tôi không biết mọi người về khi nào. Tiếng ba gọi ngoài sân: Bé Sáu đâu rồi. Ra đi với ba, đem quà tết đi biếu các ông, các bà, các chú, thím.
Tôi bước ra sân, đắm mình trong không khí mùa Xuân!
Hai Thóc