Ấn tượng và ám ảnh
Đó là nơi gặp gỡ giữa các thái cực của cuộc sống, bao gồm bóng tối và ánh sáng, nước mắt và nụ cười, đau đớn và hạnh phúc, lụi tàn và tái sinh.
|
Tôi đang nói về Triển lãm “Da cam - Lương tri và Công lý” - Kon Tum 2022 do Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, Binh chủng hóa học và UBND tỉnh Kon Tum phối hợp tổ chức tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 20/7 đến hết ngày 25/8.
|
Với gần 400 hình ảnh, tài liệu, hiện vật, người xem sẽ ám ảnh bởi những nỗi đau da cam, ấn tượng bởi những nỗ lực khắc phục hậu quả da cam từ nhiều phía, bởi những vòng tay nhân ái dành cho các nạn nhân da cam, hay bởi những tấm gương vượt khó phi thường của chính các nạn nhân và thân nhân của họ.
Đập vào mắt tôi đầu tiên là những hiện vật liên quan trực tiếp đến thảm họa da cam trong chiến tranh Việt Nam. Đó là túi đựng chất độc hóa học, quả đạn hay dàn phóng, được sử dụng để gieo chết chóc xuống những cánh rừng, những ngôi làng.
|
Ngày 10/8/1961, cuộc chiến tranh hóa học có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người được Mỹ khởi động tại Việt Nam. Và các cánh rừng ở Kon Tum là “nạn nhân” đầu tiên.
Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da cam, chứa 366kg dioxin xuống miền Nam Việt Nam và Tây Nguyên.
Riêng Kon Tum hứng chịu 346.000 lít chất độc hóa học, trong đó có hơn 34.000 lít chất độc da cam (có chứa chất dioxin).
Không chỉ làm môi trường bị ô nhiễm nặng nề, các hệ sinh thái bị đảo lộn, chất độc da cam đã làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, hơn 3 triệu người là nạn nhân, gây nên bao thảm cảnh cho mấy thế hệ người Việt Nam.
Nghiêm trọng hơn, chất độc da cam có thể di truyền qua nhiều thế hệ. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện cả nước có khoảng 75.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ 2; 35.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ 3. Tại một số địa phương, hậu quả chất độc da cam đã di nhiễm sang thế hệ thứ 4.
Ngắm bức ảnh đen trắng chụp cặp song sinh Việt-Đức tim tôi như thắt lại. Việt và Đức chào đời ngày 25/2/1981 ở xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy. Theo tư liệu của Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, mẹ của 2 anh em trồng lúa trong vùng đất từng bị chất độc màu da cam sau khi chiến tranh đã kết thúc. Thậm chí, bà còn uống nước trong khu vực đó.
Việt và Đức có hình hài khác thường, dính liền nhau vùng bụng chậu, chung một đôi chân. Hai đứa trẻ sơ sinh bị gia đình bỏ lại trạm xá xã.
Ngày 4/10/1988, Việt và Đức được phẫu thuật tách ra thành công. Sức khỏe của Việt yếu đi dần sau ca phẫu thuật, và mất vào năm 2007, sau 19 năm sống thực vật.
Và còn nhiều, khá nhiều bức ảnh làm người xem thấy ám ảnh. Trong buổi chiều ấy, có một đoàn khách tham quan đến từ huyện Kon Rẫy. Họ cũng chính là những nạn nhân chất độc da cam. Và nước mắt họ đã rơi xuống, khi xem hình ảnh về những đứa trẻ bị khuyết tật nặng, không thể ngồi, không thể đi lại, không thể cầm nắm, cơ thể biến dạng.
Một số vị khách dừng khá lâu trước khu vực trưng bày mang chủ đề Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh hóa học và tỉnh Kon Tum khắc phục thảm họa da cam; chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam. Trong mắt họ ánh lên sự xúc động.
Những cái ôm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương dành cho nạn nhân da cam/dioxin thể hiện tình cảm, sự sẻ chia.
Những việc làm nghĩa tình là sự động viên, khích lệ lớn lao; là điểm tựa vững chắc cho các nạn nhân chất độc da cam và thân nhân trong hành trình vượt qua gian khó để đứng vững, để vươn lên trong cuộc sống.
Theo Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, nhiều chủ trương, chính sách được triển khai nhằm hỗ trợ, nâng cao đời sống nạn nhân da cam. Các chế độ ưu đãi bao gồm trợ cấp hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng, hỗ trợ học nghề, tạo việc làm, miễn, giảm giá vé khi tham gia giao thông…
Hằng năm, Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin các cấp đã vận động, huy động hàng trăm tỷ đồng để giúp nạn nhân chất độc da cam làm nhà, sửa chữa nhà, phục hồi chức năng, khám chữa bệnh, học nghề, hỗ trợ học bổng, cho vay vốn sản xuất, tặng xe lăn, xe lắc, xe đạp.
Ở Kon Tum, các chính sách hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam luôn được quan tâm thực hiện hiệu quả. 18 năm qua, không thể đo đếm được tình cảm, sự hỗ trợ của chính quyền, cộng đồng và người dân dành cho nạn nhân và gia đình nạn nhân da cam. Từ đó giúp họ tự tin hơn, mạnh mẽ hơn trong hành trình vươn lên.
Trên tất cả, tôi ấn tượng với bức ảnh một em bé - nạn nhân chất độc da cam - đang chơi với chậu hoa đỏ rực. Và em mỉm cười.
Nụ cười ấy làm tôi nhớ lại hình ảnh tươi tắn của gia đình Nguyễn Đức- người em trong cặp song sinh năm xưa. Anh lập gia đình ngày 16/12/2006. Tháng 10/2009, vợ chồng Đức đón cặp sinh đôi một trai, một gái. Điều tuyệt vời là cả 2 cháu đều khỏe mạnh, bình thường. Nụ cười luôn sưởi ấm mái nhà nhỏ, dù cuộc sống còn không ít khó khăn.
Vì lý do nghề nghiệp, tôi biết có nhiều tấm gương nạn nhân chất độc da cam, thân nhân nạn nhân mạnh mẽ vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống.
Như chị Phạm Thị Xuân Bốn ở huyện Sa Thầy. Lập gia đình, sinh được 2 cháu thì cháu gái đầu bình thường, cháu trai Huỳnh Hưng bị đa khuyết tật ngay khi sinh, sống thực vật. Ai cũng tin rằng, cháu bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam.
Được sự động viên của gia đình, họ hàng và sự hỗ trợ của chính quyền, đoàn thể, chị luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, vừa làm ruộng, rẫy, vừa chăm sóc con trai, nuôi con gái đầu ăn học đàng hoàng.
Gia đình cựu chiến binh Nguyễn Minh Lượng-Trần Thị Cảnh (xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy) cũng là một tấm gương vượt qua bất hạnh, vươn lên trong cuộc sống.
Trong chiến tranh, cả hai ông bà đều hoạt động ở khu vực bị rải chất độc hóa học. Ông bà sinh được 4 con, trong đó con thứ 3 mất sau khi sinh; con thứ tư bị dị tật bẩm sinh (sứt môi, hở hàm ếch).
Kiên cường vượt qua nỗi đau, ông bà không hề ỷ lại vào Nhà nước, luôn nỗ lực làm ăn, vươn lên khá giả.
Kết thúc của bóng tối là ánh sáng. Trên dãy đồi Sạc Ly (huyện Sa Thầy) từng là nỗi ám ảnh về nỗi đau da cam đã phủ kín màu xanh của cây rừng. Dù gian khó, nhưng mạch đời vẫn không ngừng xuôi chảy.
Vì một tương lai tươi sáng hơn.
Hồng Lam